Thứ Ba

Tam Kỳ luận thế nào ?

Về cách Tam kỳ trong Tử bình chưa có nhiều thí dụ để kiểm nghiệm cách cục này "có thực" hay không. Thật ra, Tam kỳ cách lấy ý từ Lục nhâm mà dùng.

- Canh Giáp Mậu
- Ất Bính Đinh
- Tân Nhâm Quý

Thứ tự của các can này trong tứ trụ có được đảo tới đảo lui mà vẫn gọi là "Tam Kỳ" hay không thì tôi cho rằng không.

Vì cho dù có thể áp dụng một nguyên lý bất kỳ nào nhập vào một môn khác thì phải tôn trọng nguyên lý của môn đó. Tử bình xem trọng can ngày và lệnh tháng thì nếu thứ tự thay đổi là tất cả thay đổi.

Thí dụ như Canh-Giáp-Mậu. Cứ cho đây là một "Tam kỳ", một ngoại cách cực tốt, thì cũng phải hiểu theo Tử bình thế nào là tốt. Chúng ta phân tích theo Mậu can ngày thì Canh là Thực và Giáp là Sát.

Nếu đảo thứ tự của Canh Giáp Mậu thì dĩ nhiên Canh hay Giáp là can ngày thì thập thần cũng không còn là Thực chế Sát nữa.

Canh-Giáp-Mộc vì thế vẫn phải giữ thứ tự mới xét "tam kỳ" được. Can ngày Mậu thổ đang bị Giáp mộc khắc kế bên, nhưng Giáp bị Canh xuất hiện kềm chặt ngay, nên có thể nói Canh kim là con của Thổ đến cứu giải đúng lúc. Năm Canh thì tháng Giáp là Giáp Thân, lệnh tháng thấu can là một điểm mạnh rõ ràng.

Nội xét 3 can này cộng với lệnh tháng mà nói là quý cách thì đã đúng rồi, chỉ cần thân không nên quá vượng hay quá nhược làm tứ trụ bất trung hòa, đến đại vận là phát. Thí dụ như vị trí của Hỏa không nên nhiều quá làm cho Mộc bị chiết giảm thêm, vì dù sao Mộc cũng là đường quan lộ của Mậu nhật chủ.

*****

Tony Trabert, sinh 16.8.1930 tại Mỹ, không rõ giờ sinh, nhưng cả ngày Mậu Tuất này, hỏa vượng nhất là giờ Tỵ, tuy thế vẫn kém Kim lực quá thịnh.

THỰCSÁTnhật chủ
CanhGiápMậu
NgọThânTuất

Vào vận Bính Tuất 18 tuổi đã nổi tiếng về môn quần vợt, 10 lần đoạt giải chung kết. Năm Ất Mùi 25 tuổi là năm cao điểm mà anh ta đoạt tất cả giải đôi và đơn ở các kỳ thi đấu quốc tế trên thế giới.

*****

Đây là một mệnh của ông Tướng 4 sao Guenter Kiessling tại Đức, người trẻ tuổi nhất trong hàng tướng lãnh vào thập niên 70. Ông ta vừa mất hồi tháng 8 năm nay.

KIÊUKIẾPnhật chủTỶ
ẤTBÍNHĐINHĐINH
SỬUTUẤTSỬUMÙI

Tứ trụ này có quý tướng là nhật chủ Đinh mang tam hình Sửu Tuất Mùi hội tụ là dụng thần của nhật chủ. Đặc biệt theo thuyết Tam kỳ quí nhân "Ất-Bính-Đinh" thì Ất mộc-Bính hỏa-Đinh hỏa tương sinh đã truyền hết sức mạnh cho Thổ là Thực Thương, nơi phát tiết những khả năng tiềm tàng của ông. Đúng gọi là "cường hỏa đắc thổ". Thiên thời và địa lợi có sẵn.

Từ vận thứ nhì (thời kỳ thế chiến thứ hai) đã vào quân đội, có khí phách cương dũng, chiến lược xuất sắc nên đã sớm được giữ vai trò quan trọng và thăng chức Tướng 4 Sao vào năm mới 45 tuổi. Tuy nhiên, lên quá nhanh, quá mãnh liệt thì cũng phải tính đến việc suy tàn sớm; ngay vào vận sau là Canh Thìn vì một chuyện tai tiếng cá nhân, cuộc đời quân sự của ông bị lao đao và cuối cùng phải về hưu năm Giáp Tí 84 trong vận. Sau đó ông được phục hồi danh tiếng, nhưng không còn giữ các chức vụ chỉ huy nữa. Vị tướng cương trực hiếm có này đã tranh đấu tới cùng cho thanh danh của mình và thành công, đấy cũng là một điểm nhấn của bản tính Hỏa-Thổ không chịu khuất phục một ai.

Lạc Lộc Tử cho rằng: "Kỳ vi quý dã, kỳ giả, dị dã !" (Kỳ là quý, kỳ chính là kỳ lạ vậy !).

Đại diện và tính khí của 10 thần

Chính Ấn và Thiên Ấn

Người mẹ ruột, mẹ kế, người nuôi dưỡng cho ăn học, thầy giáo, người lớn tuổi, người giúp đỡ, cột trụ gia đình, người điều chế thuốc, bồi bàn dọn thức ăn
Sự Vậtvốn kiến thức, tin tức, nghiên cứu, học tập, chú ý, trầm tư, từ thiện, thói quen, sự say mê, tinh thần hướng thượng, cố gắng, giáo dục, ủng hộ, nguồn sinh sống, giấy tờ tùy thân, chế độ, tiền hối lộ, sự bao che
Tích cựcrộng lượng, chịu đựng giỏi, may mắn, thiên hướng về tôn giáo, triết lý, đạo đức, giao thiệp với những người có vị trí cao trong xã hội, ổn định nội tâm tốt, hiếu thảo
Tiêu cựctự tin thái quá, ý kiến cá nhân kém, lười biếng, thiếu ý thức


Tỷ và Kiếp

Ngườibạn bè, đồng nghiệp, anh em họ hàng thân thuộc
Sự Vậtcạnh tranh, thi đấu, biệt ly, chia rẽ, trách nhiệm, thách thức, không thừa nhận, độc lập, bành trướng, khai thác, tình bạn, hữu nghị, phán quyết của tòa án, máu tăng cao, giao kèo mãn hạn
Tích cựcquả quyết, minh định lập trường tốt, can đảm, có dũng khí, ý chí mạnh mẽ, trung thành
Tiêu cựcích kỷ, hung hăng, hay gây gỗ, tàn nhẫn, không có bạn tri kỷ, hôn nhân không thuận hòa, hèn nhát hoặc rất nhu mì, dễ bảo

Thực và Thương

Ngườicon cái (đối với nữ), con rễ, con dâu, người thân của vợ hay chồng
Sự Vậtóc sáng tạo, diễn cảm nghệ thuật, diễn đạt ý nghĩ, nét mặt, giọng nói, sự sinh nở, tài khéo léo, mỹ thuật, mưu kế, kỷ xảo, lý lẽ tranh luận, cách nhìn sự việc chung quanh, cơ thể ốm yếu, những điều chỉ có trong tâm trí, sự tưởng tượng, thức ăn, danh vọng, sự tiếp đãi, giải trí
Tích cựckhôn ngoan, khéo léo, lịch duyệt, hiểu biết vấn đề tốt, có cảnh giác, lý tưởng cao
Tiêu cựchay hiểu lầm, gây bất hòa, tính yếu đuối nhu nhược, trí nhớ kém, nghiện ngập, nuôi dưỡng ảo tưởng


Chính Tài và Thiên Tài

Ngườivợ, cha, chú, cô, dì, bác, em dâu, chị dâu
Sự Vậttiền bạc, nghề nghiệp, buôn bán, mậu dịch, đầu tư, kinh tế, tài sản, vật sở hữu, thuế, tiền lương, hưu bổng xã hội, trang phục, di sản, tiền vốn cho vay, sự tiết kiệm, quan hệ đến sinh mạng của người khác, sự tử hình, vấn đề rất tai hại, thức ăn, tình dục, văn học hiện thực, triết học duy thực
Tích cựcchuyên cần, tằn tiện, thành thực, có lý trí tốt, có chừng mực, ổn định, bền bĩ
Tiêu cựcquá bảo thủ, cứng rắn, ngoan cố, dâm đãng, tính tóan hơn thiệt thái quá, nhỏ mọn, thích khoa trương không có thực tài, thiếu kỹ luật


Chính Quan và Thiên Quan

Ngườicon cái (đối với nam), chồng, em trai nhỏ nhất (đối với nữ), cháu gái
Sự Vậtchức vụ, lập trường, nghề nghiệp, hoạt động, áp lực, sự khẩn cấp, tiến triển, bịnh tật, tệ nạn xã hội, sự kiện cáo, thi thố sức mạnh, quyền hành, thế lực, năng lượng, sự không thừa nhận, tai nạn, sự thăng giáng thất thường, công việc của kế toán, sự hư hỏng của thiếu niên, mạo hiểm, danh vọng, uy tín, tiền gửi ngân hàng, công trạng, danh dự
Tích cựcchính trực, liêm khiết, công bằng, hào hiệp, đầy khí lực, sức khỏe tốt
Tiêu cựcsắt đá, cục bộ, lờ mờ không rõ ràng, ý chí kém cỏi, dễ phạm pháp, mưu đồ bất chính, nghi ngờ, hận thù, miễn cưỡng, nổi lọan, bất trị

Vài suy nghĩ về tâm tính của 10 thần là chính ta

* Người có Tỷ Kiếp nhiều thường có cá tính kiêu ngạo, tự tôn hơn người khác. Người không có Tỷ Kiếp trợ thân thì thiếu sự cạnh tranh, không được thừa nhận trong đám đông, động viên được họ rất khó.
* Nhưng tùy theo thân vượng hay nhược mà lại có cấp độ khác nhau.
* Vì thế, sự tích cực và tiêu cực kể trên không dành hoàn toàn cho người thân vượng hay nhược. Có nghĩa là người đã vượng lại còn nhiều Tỷ Kiếp thì sự tích cực (mặt đáng kể là có giá trị tốt cho cộng đồng và bản thân) có thể bị đảo ngược lại là tiêu cực.
* Người thân nhược và ít Tỷ Kiếp hoặc không có Tỷ Kiếp trong tứ trụ thì ngược lại không thể đảo lại có thế mạnh của sự tích cực đề ra. Họ chỉ có thể bớt được những cá tính kém giá trị mà thôi.
* Các thập thần khác cũng xét như vậy.

* Nếu mệnh chủ thân vượng thì sự có mặt vừa phải của Thực Thương sẽ làm tiêu hao bớt năng lượng của họ, thể hiện được tài năng ra ngoài.
* Nếu thân nhược thì dĩ nhiên điều nói trên kém cỏi hơn.
* Thực Thương giúp nhật chủ cả vượng lẫn nhược phát sinh ra thu nhập nếu trong trụ có Tài.
* Thực Thương có mặt lại kiềm chế được năng lực tiêu cực của Quan Sát.
* Vì thế, Thực Thương là yếu tố quan trọng giữa nhật chủ và Tài, Quan. Nếu cho rằng khi xét tứ trụ chỉ xem Tài hay Quan, kể cả Ấn là chính, là quan trọng bậc nhất trong tứ trụ là không hiểu rõ tâm tính của Thực Thương.
* Mối lo ngại gặp Thương Quan là "chết" Quan nên hiểu rằng, chỉ khi nào hành của Quan nghiêng về mặt tiêu cực, thì Thương quan lại là sự cứu vớt cho Quan trở về con đường chính.
* Vì thế Thương Quan hữu dụng có những thể hiện qua hành động chân thực, thông minh, dũng cảm...không kém gì Quan.

> Những quan hệ khác (âm với âm, dương với dương) cũng xét như vậy: Kiếp Tài, Thiên Tài, Thiên Quan (Sát), Kiêu thần

> Tóm lại, không có thập thần nào gọi là hoàn toàn tốt, thần nào gọi là xấu, mà chỉ qua các quan hệ hỗ tương của ngũ hành trong tứ trụ mới định được tâm tính của nó.

> Tâm tính của 10 thần chính là tâm tính của ta, không có gì xa lạ. Nghĩa là 10 thần không phải là những "ông thần" ở ngoài tác động vào mình, mà chính là bản thân ta.

> Khi đến đại vận, lưu niên, tâm tính của chúng ta sẽ được thể hiện ra, không phải là một lực nào khác cả. Thí dụ như Tài trong tứ trụ có khí lực tốt (tích cực) thì đến vận Tài chắc chắn rằng có phát sinh ra điều may mắn cho mình. Ngược lại, nếu chúng ta đã có những tính khí tiêu cực của Tài thì đến vận Tài có khi trúng số nhưng rồi cũng tiêu hết hoặc giữ lấy làm của riêng, không hào phóng, không giúp đỡ một ai, v.v... Hoặc "số nghèo" vẫn hoàn nghèo là nằm ở tính tiêu cực của Tài, Thực Thương và Quan.

Luận nữ mệnh

Trong môn tử bình, trong khi luận cho nam mệnh lấy Tài Quan Ấn làm chính thì nữ mệnh lấy Quan tinh và Tử tinh mà xét. Đó là vì theo quan niệm trọng nam khinh nữ, lấy tam tòng tứ đức làm chính. Nếu Quan và Thực có lợi thì mệnh của nữ cũng tốt đẹp, ngược lại thì xấu. Quan niệm ngày nay có thay đổi, giai cấp thay đổi, nam nữ bình đẳng, nên luận số vẫn phải theo thời, cả nam lẫn nữ đều xét mệnh cục chung. Tuy nhiên, bình đẳng đến mức nào có lẽ để mỗi người tự xét đoán. Chỉ xem lại những cách luận cho nữ theo quan niệm "phu lợi kì phụ tất lợi"* để hiểu và làm tài liệu nghiên cứu.

* (Chồng có lợi thì vợ cũng lợi theo)

Có một cái chung nhất khi luận nam và nữ mệnh, cần nhất là ngũ hành trung hòa, kỵ mệnh thiên khô và cần phải đắc khí. Nếu nam có 8 cách để luận bình thường, thì nữ cũng có "bát pháp" và "bát cách".

Bát pháp là 8 mẫu hình dành cho phụ nữ: Thuần, Hòa, Thanh, Quý, Trọc, Lạm, Xướng, Dâm.

1. Thuần: chỉ có 1 Quan hay 1 Sát lộ, có Tài và Ấn lộ, địa chi không xung, không hình, không có hỗn tạp (thiên chánh đều có gọi là hỗn tạp).

2. Hòa: tứ trụ trung hòa, không quá vượng, không quá nhược, không có khắc, xung, hình, hại; gọi là "hòa bình chi tượng". Người bên ngoài thể hiện rất là điềm tĩnh, rất dễ nhận ra.

3. Thanh: giống như Thuần, chỉ có 1 Quan hay 1 Sát, nếu không lộ cũng không được hỗn tạp, có Tài sinh Quan hoặc có Ấn trợ thân. Người rất thanh quý và hiền hòa.

4. Quý: có Quan tinh trong trụ, không hỗn tạp, Tài tinh vượng sinh cho Quan, địa chi không bị hình xung, lại có Quý nhơn hỗ trợ (Thiên đức, Nguyệt đức, Văn Xương).

5. Trọc: hành Thủy và Thổ đều có và mạnh, thân quá vượng, Quan tinh không có, lại có nhiều Thiên quan (Sát), hoặc không có Tài, Ấn và Thực. Mệnh gọi là tiện cách, thường là vợ lẽ, thứ thiếp hoặc nghề nghiệp không được trọng vọng trong xã hội.

6. Lạm: nhiều Quan tinh và Sát hỗn tạp, Tài vượng nhưng bị ám xung. Mệnh người ham mê vẻ bề ngoài, không hướng nội, hoặc gặp tái giá hay chỉ làm thê thiếp, làm thuê mướn.

7. Xướng: thân cực vượng, mà Quan tinh tọa đất suy bại. Hoặc trụ không có Quan Sát, nếu có lại cùng thấu lộ ra. Thực Thương quá vượng. Mệnh này hoặc là theo nghề ca kỹ, hoặc khắc phu loạn luân.

8. Dâm: thân tự vượng, can loạn trọc hoặc bị đa hợp tranh hợp, chi bị ám, xung, Tài tinh hoặc Thực Thương quá vượng, nhiều Đào hoa tinh. Hoặc tứ trụ Thủy thịnh vượng không có Thổ khắc chế cũng nằm trong pháp này.

Nhìn chung, về nghề nghiệp của phụ nữ cũng bị đặt theo thời thế khi xưa, bây giờ nên xét giảm khinh lại hầu như quá nửa.


Dựa vào Bát pháp cổ nhân đặt ra Bát cách (8 cách cục dành riêng cho nữ mệnh):

1. Vượng phu ích tử: giúp được cho chồng nhưng khắc con. Mệnh có Tài tinh sinh Quan, nhưng Thực Thương bị xung mạnh, nhất là ở trụ giờ, hoặc đất của Thực Thương là đất suy, bịnh, tử, tuyệt.

2. Vượng tử thương phu: có con nhiều, lợi cho con nhưng không lợi cho chồng. Quan hay Sát bị phản sinh, hoặc cung phu là tuyệt địa, trong khi Tử tinh được trường sinh, lại có Tài vượng.

3. Thương phu khắc tử: khắc cả chồng lẫn con. Tệ nhất là can hợp với can của Quan hay Sát mà không hóa được Khí. Hoặc quan tinh bị đa khắc, thí dụ như 2 Mậu khắc 1 Nhâm. Tử tinh lại ở đất suy bại, bị không vong, hình xung.

4. An tĩnh thủ phận: mệnh trung hòa, tình cảm hợp đạo vợ chồng, chung thủy. Tốt nhất là can hợp hóa khí thuận với phu tinh, thí dụ như Quan là Hỏa mà có Mậu hợp Quý đúng thời đắc khí. Tuy nhiên lại có hành khắc chế quan tinh mạnh hơn. Tử tinh cũng đắc trường sinh, không bị xung hình hại. Mệnh có chồng con thuận thảo, chỉ vì thiếu Tài tinh nên chỉ thủ phận nội trợ là yên lành.

5. Hoạch tử yểu chiết: mệnh yểu tướng. Thân nhược mà Sát lại mạnh, nguyên cục bị khắc không có cứu, phu tinh không có, tử tinh làm loạn. Mệnh bị rút khí sớm nên yểu tướng.

6. Phúc Thọ lưỡng bị: vừa có phúc lại thọ. Chi ngày sinh có Lộc, không bị xung ám, phu tinh tọa đất trường sinh lại tọa đất Lộc trụ giờ. Cách này quý hiếm, gọi là Hội Lộc cách, vì chồng và con đều có Lộc (không bị xung khắc). Suốt đời bình an, chồng con đều hưởng.

7. Chánh Phiến tự xử: Chánh là Chánh quan, Phiến là Thiên Quan. Tượng này một là đa hợp, tranh hợp, hoặc có Thương quan và Quan tinh đều vượng khí, duyên phối đến chậm hoặc làm vợ kế, hay chẳng được yên thân, lưỡng lự hai bề.

8. Chiêu giá bất định: Quan tinh ở trụ tháng bị thất thời, tọa bại địa (như Giáp mộc là Quan tinh tọa mộc dục), lại trường sinh ở chi giờ (Giáp trường sinh ở Hợi). Quan tinh không gặp ở thời trung niên, mãi sau mới gặp. Hoặc như các can của Quan tinh bị hợp mà không hóa cũng rơi vào Cách này.

Tài tinh

Chính Tài là Kỷ thì đối với can ngày Giáp là tính khác với Chính Tài Mậu đối với Ất. Để ý là các Chính Tài đều có thể hợp với nhật chủ dương can.

Đầu tiên thì giống như tất cả các lục thần khác, Chính Tài hay Thiên Tài có mặt là để tiết khí Thực Thương và phòng ngừa được việc quá sung mãn của Ấn Kiêu. Chính Tài không bị hình xung khắc hại thì hỗ trợ tốt cho Quan Sát.

Minh họa qua ngũ hành thì thấy rõ hơn (> sinh; # khắc):

Thực Thương....>Tài.....>Quan
Hỏa............>Thổ ....>Kim

Tài....#Ấn
Thổ...#Thủy

Vì thế khi thân đã vượng thì ngược lại không nên có Ấn Kiêu thêm nữa mà nên có Tài thần để ngăn chặn không cho thủy mạnh (như nước lớn làm vỡ đê vậy).

Còn thân mà nhược thì trái lại Tài thần (với chức năng là khắc Ấn) sẽ làm mất lực của Ấn trong khi thân nhược cần được phò sinh. Bởi thế mới nói "tài đa thân nhược" là ý này, chứ không phải là cứ thân nhược là không có tiền tài. Hành vận mà đúng lúc Ấn mạnh hoặc hỉ thần tốt thì vẫn phát lộc như thường.

Khi xưa cổ nhân cứ thích nói đến "tài đa thân nhược" là cũng dụng ý nói về thê thiếp (vợ lớn, vợ bé) trong nhà. Vì Tài cũng là vợ của nhật chủ. Nếu Tài nhiều và mạnh thì trong nhà vợ đoạt mất quyền hành, nhật chủ thân yếu kém là lép vế! Còn Tài mà kém thì vợ nhu mì ngoan ngoãn hơn.

Nếu trụ của chồng không có Thực Thương mà còn có Kiếp thịnh vượng thì nên cẩn thận, có khi hay bị sức lực vũ phu của ông ta hành hạ khổ sở!


Tài còn đại diện cho cha, có mấy trường hợp để nghiệm lý như sau:

Tài - đế vượng : Cha làm ăn khá nhưng tâm tính rất nóng nảy, sôi nổi.

Tài - trường sinh : Cha nhân từ, rộng lượng, thường gặp hạn rất tốt

Tài - tử, mộ, tuyệt : Cha người bình dị, không có tham vọng

Tài - suy, bịnh, dưỡng : Cha có vận hạn trung bình, không phát

Tài - Dịch mã cùng trụ : Cha thường di chuyển nhiều

Tài - Đào hoa : Cha dáng vẻ đẹp hoặc có nhiều tài nghệ khéo léo, thu hút phụ nữ


Bình thường thì nếu một hành mất hẳn thì 2 hành kế cận bị ảnh hưởng đầu tiên, như khuyết Kim thì Thổ và Thủy suy yếu, cho dù là đắc địa hay thịnh vượng. Như một dòng chảy xuôi bị ngăn lại, nên Thổ sẽ rút khí Hỏa rất nhiều và khắc được Thủy rất mạnh.

Tài tinh bị khuyết thì dù thân vượng hay nhược làm ăn sẽ có đầu mà không có hậu. Vì thế nên dụng Tài làm điều hầu là tốt nhất, người giỏi là làm nhiều nghề, gặp vận thông suốt thì vẫn thành công.

Nếu Thổ mạnh quá, Mộc yếu thì chỉ còn có thể theo cách Tòng. Mộc vượng thì tứ trụ quá nóng, có phải là rốt cục cũng phải điều hầu bằng Kim Thủy.

Thế nào là Trung khí, Dư khí ?

Tính gọn mỗi quý có 3 tháng là 90 ngày, mỗi tháng có 30 ngày. Một quý là một tam hội để nhận định tứ mùa vượng tướng:

- Dần Mão Thìn, mùa Xuân, phương đông
- Tị Ngọ Mùi, mùa Hạ, phương nam
- Thân Dậu Tuất, mùa Thu, phương tây
- Hợi Tý Sửu, mùa Đông, phương Bắc

Sự vật gì cũng đi dần lên, từ yếu sang mạnh, rồi suy và tàn, nên trong mùa, trong tháng, ngày, giờ đều được suy ra như vậy.

Theo trong bảng tàng can, thí dụ như tháng Dần (Lập Xuân) chứa Giáp, Bính, Mậu thì có nghĩa là Mậu (thổ) là dư khí của tháng Sửu còn lại 5 ngày, chuyển dần sang Bính hỏa là trung khí 5 ngày rồi mới đến bản khí của Dần là Giáp mộc 20 ngày.

Sang đến tháng Mão (Kinh Trập) thì Giáp vẫn còn dư khí 7, còn lại 23 ngày do Ất làm chủ, bởi vì bản khí của Mão là Ất âm mộc.

Qua tháng Thìn (Thanh Minh) thì Ất còn vương lại 7 ngày, đến Quý 5 ngày và Mậu bản khí của Thìn 18 ngày.

Cứ như vậy mà tính cho đến hết 4 mùa. Điều đáng nói rằng số ngày và dư khí chuyển như vậy có sách viết khác nhau, thí dụ như Thìn chứa Mậu-Quý-Ất, ý là đọc từ trái sang phải: bản khí-trung khí-dư khí, nhưng lại có nơi cho rằng Mậu-Ất-Quý mới đúng hơn, v.v...

Sự việc này dẫn đến chuyện tính cách cục theo thứ tự có đảo lại, thí dụ như bạn sinh trong ngày thứ 8 đến 12 của tiết Thanh Minh thì tính là Quý hay Ất?

Thế nhưng không cần đặt nặng vấn đề này, vì lẽ, cuối cùng vẫn phải xem Quý hay Ất có lộ ra hay không và tính chung cả thì Thủy và Mộc mạnh hay yếu.

Đặc biệt là 4 tháng cuối mùa Thìn Tuất Sửu Mùi đều thống nhất Thổ chiếm 18 ngày cuối mùa, còn lại thì trung khí và dư khí chia nhau 7 ngày và 5 ngày.

Đặc điểm thứ hai của các tháng đó thì sách Tam Mệnh Thông Hội trong Chương Luận Nhân Nguyên, họ không tính âm can mà tính dương can cho trung khí:

Thìn (Thanh Minh) tàng Mậu, Nhâm, Ất (thay vì Quý). Lý do vì Nhâm mộ ở Thìn, hay nói cách khác, Thìn là mộ khố của hành Thủy.

Mùi (Tiểu thử) tàng Kỷ, Giáp, Đinh (thay vì Ất), vì Giáp mộ ở Mùi. Mùi là mộ khố của Mộc nói chung.

Tuất (Hàn lộ) tàng Mậu, Bính, Tân (thay vì Đinh): Tuất là mộ khố của hành Hỏa; Bính mộ ở Tuất.

Sửu (Tiểu hàn) tàng Kỷ, Canh, Quí (thay vì Tân): Sửu là mộ khố của hành Kim; Canh mộ ở Sửu.

Và cũng bởi vì thế mà người ta mới gọi Thìn Tuất Sửu Mùi là Tứ Mộ. (Nếu tính âm can thì là Tứ Dưỡng rồi!).

Thật sự thì nếu muốn hiểu rõ thì phân biệt như thế, trong thực tế, khi luận đoán, cứ dùng bảng Sinh Vượng Tử Tuyệt mà luận đầu tiên, sau đó cân nhắc ngũ hành nói chung tiếp theo.

Kiếp Sát

Kiếp Sát theo sách cho là chỗ TUYỆT của tam cục ngũ hành:

- Cục Thủy (Thân Tí Thìn) gặp Tỵ
- Cục Hỏa (Dần Ngọ Tuất) gặp Hợi
- Cục Kim (Tỵ Dậu Sửu) gặp Dần
- Cục Mộc (Hợi Mão Mùi) gặp Thân

Nhưng Kiếp Sát không chỉ là hung tinh mà còn là cát tinh nữa. Trong trụ thì ảnh hưởng đến sự học hành cầu tiến của bản thân, trong vận thì thể hiện ra.

Có điều là khi nào biết Kiếp Sát là tốt, khi nào xấu? Theo định nghĩa về KS ở trên thì lấy ngũ hành tam cục dựa vào. Tức là nếu Mộc là dụng hỉ thần thì gặp Thân là xấu, ngược lại Mộc là hành kỵ của mình thì gặp KS lại có tác dụng tốt, vì cũng giống như Không Vong; kỵ thần bị ức chế thì bản thân mình như được thoát nạn.

Như lại nói về Không Vong, mọi thứ rơi vào đây lại là phản tác dụng, vậy ở trụ này, phải xem Mộc là hỉ hay kỵ trước đã.

Mộc là hỉ thần thì Kiếp Sát "kiếp" Mộc, tức là KS gây hung họa.
Mộc là kỵ thần thì Kiếp Sát là cứu tinh, ngăn không cho Mộc hành động.

Thứ nhì, xem Mộc trong trụ là lục thân gì? Ở trụ nào? Đoán ra ảnh hưởng đến mình hay người nhà và có thể cũng đoán đúng được giai đoạn nào...v.v...

Không Vong

Không Vong là trạng thái có thể diễn tả như bị mất phương hướng, trạng thái vô trật tự, không bám víu. Chữ Không là Rỗng, chữ Vong là Mất. Vậy mọi thứ lọt vào KV không phải gọi là không có tác dụng gì hết, nhưng hiểu là tác dụng ngược lại cái vốn có.

Cát thần và dụng thần lọt vào KV thì mất điểm tốt. Hung thần và kị thần thì cũng mất tác dụng xấu của nó.

Những kinh nghiệm sau có thể theo từng tứ trụ xét cho kỹ:

1. Chi nào xung với Chi có KV thì giải được KV. Cẩn thận là kị thần đang bị nhốt trong KV lại có cơ hội làm loạn! Dụng thần và cát thần thì dĩ nhiên tốt đẹp.

2. Chi có KV được lục hợp, tam hợp không thấy được hóa giải, chỉ có Xung mới giải được.

Tử bình chân thuyên khi bàn về Vận cũng có câu: Gặp Không thời hung biến cát, cát biến thành hung. Tức là nói tới :
- nếu vận hạn gặp dung thần, cung trường sinh của nhật chủ là Đế vượng, Lâm quan, Lộc, có Mã tốt, có Quý Nhân, nhập Mộ khố thời là vận tốt, nhưng Chi của đại vận là KV thì biến cát thành hung.
- nếu vận hạn gặp Dương nhận, Đào hoa Sát, thân hưu tù, tử tuyệt, có kị thần, cừu thần mà Chi là KV thì biến hung hóa cát; ý cũng là một cách giải kị thần.

Chủ yếu nhớ KV giống như "đảo ngược tình hình".

Tài, Quan, Ấn nếu tọa vào trụ có Chi mang Không vong thì bị khó khăn như nói ở trên. Thường thì Không Vong mang cả tính chất thời gian và định tính trong đó, có nghĩa là nếu Không vong trụ năm thì những biến cố thuộc về khoảng thời gian 1 tuổi đến 17 tuổi là không tốt đối với bản thân. Xuất thân từ gia đình trung bình, hoặc không được nuôi dưỡng tốt, phải tự lập quá sớm..v.v...

Lục Hợp như Tuất Mão là chỉ có 2 hành, và rất cần có Can dẫn để còn hóa khí được, nếu không thì chỉ giải KV trong nghĩa "tạm khóa" các chức năng vô hình của KV, có thể thân chủ vẫn thành công trong vận, hạn có Can dẫn vậy. Như Tuất Mão phải có Bính hay Đinh dẫn thì Không Vong mới "tan mất", cũng có nghĩa là thoát khỏi thời gian vô định hình của KV. Mão là Mộc mà gặp Hỏa là như được tiết tú khí bị giam hãm của mình vậy.

Tùy theo trường hợp, Tam Hợp hay Tam Hội thì chính bản thân chúng đã vượng mà Không Vong là chi tọa Đế vượng thì Không vong càng mạnh. Nguyên lý là Kỵ thì không nên gặp thêm Lâm quan, Đế vượng. Như Dần Mão Thìn, Mão là không vong, trong tam hội này Mão là Đế vượng, nhật chủ Giáp là kỵ nhất, vượng quá có thể gẫy đổ, vì còn gặp Dương nhận cách.

Phần nhiều là nếu trong trụ không có Không Vong thì đến đại vận, lưu niên gặp KV cũng không tính. Vì cứ điểm gì mà tứ trụ có sẵn thì sẽ "động" khi đến vận, tức là tới thời của chúng, còn không thì xuất hiện qua bản tính cá nhân.


********************************

Thí dụ gặp vận Không Vong lấy vợ:

tài......tài..............ấn
Bính.....Bính.....Quý.....Canh
Thân.....Thân.....Hợi.....Thân

Kim Thủy vượng, sinh tháng Thân, lấy Hỏa Tài điều hầu. Sinh ngày Quý Hợi thì Tý Sửu không vong. KV không lộ trong trụ. Trụ ngày có Kình dương, Cô thần tọa đế vượng là Thủy kị thần không được khắc chế.

Mãi đến vận Canh Tý (34 tuổi), Tý nhập KV, kị thần mất lực nên năm 1996 Bính Tý lấy vợ, 1997 Đinh Sửu sinh con (Tý Sửu của năm cũng là KV).

(Ở đây thấy Lộc của can Quý nằm ở Tý, mà nhằm Tý lại là KV nên số không giầu có, chỉ đủ ăn. May nhờ có Tài ở trụ năm trụ tháng nên được gia đình giúp đỡ.)

************************************

Thí dụ vận xung Không Vong lấy chồng:

tỉ.........quan...................tài
Đinh.....Nhâm.....Đinh.....Canh
Dậu......Tý..........Mão.......Tuất

Ngày sinh là Đinh Mão, Tuất Hợi không vong. Ta thấy trụ giờ có Tuất, còn Nhâm Quan chính là bản khí của Hợi. Quan tinh bị ám Không. Mão Tuất là lục hợp, rõ là không thấy giải được KV. Vì mãi đến vận Bính Thìn (36 tuổi) mới gặp tình duyên và sau đó nghe nói trong vận có làm đám cưới. Thìn ở đại vận tới xung mất Tuất, Không Vong lúc này mới giải được.

(Trụ tháng có Đào hoa nhưng tọa đất Tuyệt. Đào hoa là Tý, có thể nhờ vận xung mất Không vong mà hợp được với Thìn thì mới thông suốt đường chồng con.)

Cách tìm dụng thần (thông thường)

Trước đây mọi người đều hiểu là chọn 1 trong 5 cách thường được nhắc tới: Phù, Ức, Điều hầu, Thông quan, Bịnh dược.

Hầu như tất cả đều lạc lối và phải mò mẫm vì làm sao mà nhận định ngay cách nào mà xét? Thật ra là không hiểu ý. Phải dò đủ hết các cách, sau đó mới thấy cách nào hợp lý nhất. Tức là lúc nào cũng phải nhứt thiết xem cả các trường hợp nêu ra sau đây một loạt để có cái nhìn đầu tiên chung về tứ trụ. Bước tiếp theo là xét ĐẠI VẬN, nếu thuận theo ý nghĩ đầu tiên ta chọn dụng thần thì lấy cách đó, còn không thì phải xét lại cách khác.

Khi trước có bạn cũng hỏi tôi tại sao phải chọn dụng thần mà không tìm kỵ thần? Tôi đã trả lời rằng trong cuộc sống nên tìm "bạn" chứ ai lại tìm "kẻ thù", nhưng các bạn đọc những bước sau đây thoạt nhìn thì sẽ tưởng như tìm kỵ thần vậy. Thật ra chính là phương pháp loại trừ kỵ thần để tìm cái hữu dụng nhất.

1. Xem Hành nào yếu nhất trong trụ. Lưu ý là nếu khuyết hẳn hành đó thì không tính là yếu. "Yếu" tức là trong trạng thái từ Suy đến Dưỡng, là dư khí, không nhiều nhưng có mặt trong tứ trụ.

2. Tài và Quan là hai đối tượng khắc nhật chủ, tạm gọi là phe "nghịch". Ấn Kiêu sinh cho Tỉ Kiếp, tạm gọi là phe "bạn". Nếu trong trụ Tài Quan nhiều hơn, đắc địa và thấu lộ ra thì Tỷ Kiếp là dụng. Nếu Tài Quan quá yếu, Tỷ Kiếp mạnh hơn thì đảo lại, lúc này "phe bạn" là Tài Quan.
Thân vượng hay nhược là ở điểm này.

3. Hãy xem hai cán cân của Kim (Canh Tân Thân Dậu) và Thủy (Nhâm Quý Tý Hợi) như thế nào. Nếu chúng thịnh vượng quá mức thì tứ trụ bị "lạnh"; dụng thần là Hỏa. Ngược lại nếu Hỏa (Bính Đinh Tỵ Ngọ) và Thổ (Thìn Tuất Sửu Mùi) nhiều hơn thì tứ trụ quá "nóng", cần phải có Thủy để cân bằng.

4. Nếu Quan Sát áp đảo Tỷ Kiếp (vừa vượng lại nhiều) thì Ấn phải có mặt để giúp thân và làm cho Quan tiết khí được. Cũng vậy, nếu Tỷ Kiếp thịnh vượng hơn Tài, thì Thực Thương là dụng thần để tiết khí Tỷ Kiếp và sinh cho Tài.

Như vậy, khó nhất là tứ trụ mất thăng bằng quá nhiều mà không hẳn Thuần hay Tòng. Lúc này gọi là tứ trụ có "bịnh" (đọc thêm bài "Luận ngũ hành sanh khắc chế hóa"). Thí dụ như nhật chủ Kim (Canh Tân) có những trường hợp gặp phải:

- Kim gặp quá nhiều Kim và Thổ thì kỵ thần là chính nó, dụng thần có thể là Mộc, Hỏa, Thủy.
- Kim yếu đuối là Kim và Thổ không có gốc, suy nhược; kỵ thần là Mộc, Hỏa, Thủy.
- Kim bị chôn vùi, tức là quá nhiều Thổ, lấy Mộc làm dụng, kỵ thần là Hỏa Thổ.
- Kim bị chìm là Kim gặp Thủy quá nhiều nên dụng thần là Thổ và Mộc, kỵ thần là Kim và Thủy.
- Kim khuyết (trụ hoàn toàn không có) là khi Mộc quá nhiều thì nên lấy dụng thần là Kim và Thổ, kỵ gặp Mộc và Thủy.
- Kim mất hình tướng là Kim ngộ Hỏa vượng nên chảy ra, cần có Thổ và Thủy, kỵ gặp Mộc Hỏa.

Các hành khác suy ra như vậy.

Ám hợp

"Ám" đây là ngầm, tàng dưới nhân nguyên, nặng thì có ý đe dọa và nếu gặp đại vận hung thì khó thoát khỏi tai họa, như ám quan thì mất chức, mất việc, nhẹ thì đổi chỗ làm, con cái có vấn đề, ly thân, ly dị (vì Quan còn là con trai của nam mệnh, là chồng của nữ mệnh), ám tài thì hao hụt, mất mát trong gia đình, vợ chồng hay bạn bè xung đột (vì Tài còn là thê thiếp hoặc là cha trong gia đình).

Cách xem của ám hợp/xung là xét thiên can và can tàng trong địa chi của tứ trụ không được xuất hiện làm mất lộc vị của Ấn, Quan, Tài. Mệnh nam nữ xem giống nhau. Lộc vị đây không cứ là "tiền" mà nói chung là phúc đức, là thuận, chính, trung hậu.

Thí dụ như Giáp có quan tinh là Tân. Tân lâm quan tại Dậu. Nếu trong trụ có Ất hay Mão thì lộc vị của quan tinh bị xung.

Giáp Tý thì Quý là Ấn tinh của Giáp. Quý lâm quan (có Lộc) tại Tý. Nếu trong trụ có địa chi tàng chữ Đinh (Ngọ, Mùi, Tuất) thì vị trí lộc bị ám.

Cách "Tý dao Tỵ cách" cũng là một trong những cách dùng ám xung nhân nguyên này. Cách này thì phát ở vận Tỵ, nhưng nếu trong trụ có ám xung thì địa chi của vận sẽ xung mạnh với địa chi có ám, nếu là Quan thì bị bãi chức.

Thật ra, cứ nhớ bảng thiên can xung là tính được nhanh:

Giáp # Mậu
Ất # Kỷ
Bính # Canh
Đinh # Tân
Mậu # Nhâm
Kỷ # Quý
Canh # Giáp
Tân # Ất
Nhâm # Bính
Quý # Đinh

Để ý thấy dương xung dương, âm xung âm. Và kể cả hợp âm dương cũng là ám, tùy theo phương diện nào thì tính, như Giáp Kỷ hợp Thổ, nếu là dụng hỉ thần thì tốt. Đại vận gặp trúng thì sự ám hợp hay ám xung động, tức là lúc đó mới có sự việc xảy ra.

12 cung SVTT và nghành nghề

Nhật chủ có quan hệ với tất cả Can và Chi trong tứ trụ; thiên can thấu lộ và các can tàng trong Chi. Nhưng lệnh tháng vẫn có một ảnh hưởng lớn nhất hầu suy xét căn bản về độ vượng nhược của thân. 12 cung Sinh Vượng Tử Tuyệt (SVTT) nói rõ hơn về âm dương và ngũ hành của tứ trụ trong quan hệ giữa các năng lượng ngũ hành đối với lệnh tháng. Tháng là tượng trưng cho mùa sinh, trong đó các ngũ hành chia nhau nắm lệnh hoặc suy tàn, hưu tù.

Tuy ở các xứ chỉ có 2 mùa nóng lạnh rõ rệt, nhưng tứ trụ vẫn tính theo 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông là bản tính của vạn vật. Ý nghĩa của 4 mùa chính là được thể hiện qua vòng trường sinh, có sinh, có tử, có diệt, rồi lại chuyển sang trạng thái sinh. Dĩ nhiên, ngoài phần tính căn bản theo vòng SVTT, ở Việt Nam chúng ta cần tính thêm độ "nóng, lạnh" để có thêm một yếu tố bổ xung. Cũng như nên có thêm chi tiết về cán cân của Âm Dương, bên nào nặng hơn.

Nhìn chung, mùa Xuân là mùa của Mộc, Hỏa mùa Hạ, Kim mùa Thu và Thủy mùa Đông, còn Thìn Tuất Sửu Mùi Thổ thuộc 4 tháng cuối mùa.

Nhật chủ so với Chi của tháng, đầu tiên nói lên sự vượng nhược của Can trong mùa, về nghành nghề có lợi thế ở những điểm sau:

1- Trường Sinh : Giúp đỡ hoặc phụ tá người khác
2- Mộc Dục : Cần được phụ tá vững hơn mình trong kinh doanh hoặc quan hệ cá nhân
3- Quan Đái : Sử dụng được sự thông minh và khéo léo của mình nên thành công ở những nghề như Luật, Kế toán, Dạy học, Buôn bán, Tiếp Thị, Kinh doanh
4- Lâm Quan : Chủ nhân nhà hàng, Giám đốc công ty, Trưởng phòng điều hành, những công việc chỉ định có tính cách chủ đạo
5- Đế Vượng : Tự mình làm chủ công ty hoặc cửa hàng hoặc một vị trí quyết định quan trọng, kể cả nghề nấu ăn, cấp dưỡng lao động, cơ quan xã hội.
6- Suy : Công việc tập trung ngắn hạn nhưng cần vững vàng, không có trách nhiệm cao.
7- Bệnh : Công việc không nên chọn làm quá căng thẳng và thích hợp với sở thích của mình.
8- Tử : Không nên kinh doanh mà chỉ hợp với những nghề liên quan đến văn chương, nghệ thuật.
9- Mộ : Khó chọn nghề nhất là cung này vì tính cách là hướng nội và không thích di chuyển. Rất cần được động viên và khi được thúc đẩy đúng thì thành công ở bất kỳ nghành nghề gì đã chọn. Chỉ cần sự cởi mở từ chính họ.
10- Tuyệt : Chỉ thích hợp cho Công nhân, lao động thường ngày
11- Thai : Giống như Trường sinh, đặc biệt là trong lĩnh vực nghệ thuật.
12- Dưỡng : Cũng như Mộ, rất khó chọn nghề cho đúng, vì rất cần sự chăm sóc và hỗ trợ từ gia đình, bạn bè, xã hội. Vì tính cách không nhẫn nại, kiên trì nên khó theo đuổi một nghề nào nhất định.

Thí dụ, nếu can ngày của bạn là Giáp sinh tháng Tị là Bệnh thì tính cách của bạn rất hợp với công việc nhẹ nhàng, không phải là "đầu tàu" hay "mũi nhọn" nhưng không nên thay đổi nhiều. Vì tính chất của Mộc (Giáp Ất) ở tiết Lập Hạ bắt đầu suy nên không phụ đỡ cho Hỏa nhiều được, ngược lại rất sợ tiết khí mà cần Thủy để không bị quá suy.

Đấy là nói đến tâm tính của bạn, còn nghành nghề là môi trường hoạt động, thể hiện được tính chất của mình cũng là một điều khó tính. Có người may mắn được cha mẹ nâng đỡ hoặc chọn cho mình đúng hướng đi. Nhưng cũng có người phải tự chọn nghành nghề, tự bôn ba kiếm việc, phần nhiều cũng vì môi trường xã hội đòi hỏi. Vì thế sau một thời gian phải chuyển đổi công việc, đó là bình thường. Trong trường hợp đó, bạn nên xem lại qua tứ trụ và rút tỉa kinh nghiệm bản thân để có được một cái nhìn hợp lý hơn cho mình.

Mọi lời đoán dùm cho bạn đều mang tính tương đối mà thôi. Chính bạn mới hiểu được sự cần thiết nằm ở đâu. Chúng ta nên giúp nhau ở điểm này là đúng nhất.

Can ngày là chủ nhân của tứ trụ nên chọn nghành nghề theo ngũ hành là theo ngũ hành của nhật chủ. Còn dụng thần nói chung là để điều hòa tứ trụ theo vận khí và phương ăn chốn ở. Rất ít người nghiệm lý việc này nên cứ tính nghành nghề theo dụng thần. Có cái đúng, có cái không hợp lý. Vì Dụng thần cho người thân vượng khác với các cách phải tòng, hóa, nên đầu tiên chúng ta nên biết tính khí của mình thích hợp vào việc gì (bài ở trên). Sau đó là xem can ngày thích hợp (độ mạnh nhất) cho nghề thuộc lĩnh vực nào.

Đây là vài ý kiến cho ngũ hành thuộc CAN NGÀY, tức là chính bạn, chủ nhân của tứ trụ.

- Thủy : Nhâm, Quý -
Tính cách : rất thích nghi với hoàn cảnh
Phương hướng : Bắc
Mầu sắc : Đen, Xanh dương
Nghề nghiệp : Thông tin, dạy học, tin học, lái xe, đánh cá, thầy bói, giảng viên, y sĩ

- Mộc : Giáp, Ất -
Tính cách : tăng trưởng
Phương hướng : Đông
Mầu sắc : Xanh lá cây
Nghề nghiệp : Giáo dục lĩnh vực cao, soạn thảo, xuất bản, thêu may, trang điểm, thời trang, dược sĩ, chế thuốc bắc, kiểm lâm

- Hỏa : Bính, Đinh -
Tính cách : tích cực, hoạt động sôi nổi
Phương hướng : Nam
Mầu sắc : Đỏ, Cam
Nghề nghiệp : nhà hàng ăn, cất rượu, điện, chiêu đãi, giải trí, năng lượng

- Thổ : Mậu, Kỷ -
Tính cách : Vững bền, yên tĩnh
Phương hướng : Đông bắc, Tây nam, trung tâm
Mầu sắc : Vàng
Nghề nghiệp : xây dựng, chứng khoán, luật gia, các cấp lĩnh đạo, các lĩnh vực nghiên cứu

- Kim : Canh, Tân -
Tính cách : hướng nội, không di chuyển
Phương hướng : Tây, Tây bắc
Mầu sắc : Trắng, các màu của vàng bạc, kim khí
Nghề nghiệp : chế tạo kim khí, các lĩnh vực có tính chiến lược, xe hơi, nữ trang

Bạn kết hợp cả hai lại, sẽ thấy thí dụ như người có can ngày là Giáp có thể làm những công việc trong giáo dục chẳng hạn. Người này có thể rất thành công ở vị trí Giáo viên chủ nhiệm nhưng khi làm Hiệu Phó, Hiệu trưởng thì không có uy tín vì lý do sinh tháng Bệnh thì không thể nào chịu được sự căng thẳng, nặng nề được.

Luận Ngũ hành Sanh Khắc Chế Hóa

Sách: Uyên Hải Tử Bình -Chương 4-

Ngũ hành vượng khí:
Kim vượng đắc Hỏa,phương thành khí mãnh
(thí dụ Canh Tân trong mùa Thu là vượng khí, cần có Hỏa mới được luyện thành đồ dùng, ý là thành danh)
Hỏa vượng đắc Thủy,phương thành tương tể
(Bính Đinh vượng cần có Thủy mới nên công nên việc, có nghĩa là cần được chế hãm bớt sức mạnh để không quá kiêu căng)
Thủy vượng đắc Thổ,phương thành trì chiểu
(Nhâm Quý mùa đông cần có Thổ ngăn lại thành ao hồ, không thì trôi chảy không có bến bờ vô định)
Thổ vượng đắc Mộc,phương năng sơ thông
(Mậu Kỷ cần Mộc chế bớt thì mới mong hiển đạt)
Mộc vượng đắc Kim,phương thành đống lương
(Giáp Ất cần có Kim bao bọc, tài năng phi thường)


Cường Kim đắc Thủy,phương tỏa kì phong
(khí thế dữ dội, biến trá ghê gớm)
Cường Thủy đắc mộc,phương tiết kì thế
(hành động, thế lực vô song)
Cường Mộc đắc Hỏa,phương hóa kì ngoan
(làm càn bậy, tham lam, chơi đùa quá mức)
Cường Hỏa đắc Thổ,phương chỉ kì diễm
(lửa cháy cao, khí thế nồng nàn)
Cường thổ đắc Kim,phương chế kì hại
(gặp tai hại, bị ghen ghét)

Ngũ hành tương sanh
Kim lại Thổ sanh,thổ đa kim mai
(Kim nhờ Thổ sinh cho nhưng Thổ nhiều quá thì Kim bị vùi lấp trở thành ngu muội)
Thổ lại Hỏa sanh,hỏa đa thổ tiêu
(Thổ là con của Hỏa, nhưng hỏa nhiều thì thổ bị cháy khét)
Hỏa lại Mộc sanh,mộc đa hỏa sí
(Mộc nhiều thì hỏa càng cháy lớn; ý nói đạo tặc thêm mạnh)
Mộc lại Thủy sanh,thủy đa mộc phiêu
(Mộc là do Thủy sinh, nhưng thủy quá nhiều thì mộc trôi)
Thủy lại Kim sanh,kim đa thủy trọc
(Thủy nhờ Kim sinh, nhưng Kim nhiều thì nước không trong, thủy đục)

Kim năng sanh Thủy,thủy đa kim trầm
(Thủy nhiều Kim chìm đắm sâu dưới nước)
Thủy năng sanh mộc,mộc thịnh thủy súc
(Mộc quá thịnh thì thủy co rút lại, hình thể tiêu tàn)
Mộc năng sanh Hỏa,hỏa đa mộc phần
(Hỏa nhiều Mộc cháy khét)
Hỏa năng sanh Thổ,thổ đa hỏa mai
(Thổ nhiều hỏa bị chôn vùi)
Thổ năng sanh Kim,kim đa thổ biến
(Kim nhiều Thổ biến đổi hình dạng)

Ngũ hành tương khắc
Kim năng khắc mộc,mộc kiên kim khuyết
(Kim khắc Mộc nhưng mộc cứng quá thì kim sứt mẻ)
Mộc năng khắc thổ,thổ trọng mộc chiết
(Mộc đi khắc Thổ nhưng thổ quá nặng thì mộc gẫy)
Thổ năng khắc thủy,thủy đa thổ lưu
(Thổ khắc Thủy nhưng nếu thủy lại quá nhiều thổ sẽ trôi giạt, như đất bùn)
Thủy năng khắc Hỏa,hỏa đa thủy nhiệt
(Thủy đi diệt Hỏa nhưng gặp hỏa mạnh thì thủy nóng sốt, ý nói mất cả bản chất lạnh của thủy)
Hỏa năng khắc Kim,kim đa hỏa tức
(Hỏa khắc Kim nhưng kim nhiều hơn thì hỏa tắt; ý nói mất tích hay bị tiêu mòn)

Kim suy ngộ Hỏa,tất kiến tiêu dong
(Kim đang suy mà gặp Hỏa sẽ bị tiêu tan)
Hỏa nhược phùng Thủy,tất vi tức diệt
(Hỏa yếu gặp thủy tất nhiên là tắt)
Thủy nhược phùng thổ,tất vi ứ tắc
(Thủy ít mà Thổ nhiều là bế tắc)
Thổ suy ngộ Mộc,tất tao khuynh hãm
(Thổ suy gặp mộc sẽ bị vùi lấp, hãm hại)
Mộc nhược phùng kim,tất vi khảm chiết
(Mộc đã yếu lại gặp kim thì gãy nát)

Sách "Tích Thiên Tủy" cũng nói đến sự cân bằng cần thiết của ngũ hành:

- Thổ sinh Kim, nhưng trong mùa Hạ hành Thổ táo khô, cần phải có Thủy nhuận thì Thổ mới sinh Kim được.

- Kim sinh Thủy, nhưng cuối Thu sang mùa Đông hàn lạnh, chi Kim thành đống băng nên không thể sinh Thủy được, cần phải có Hỏa ôn.

- Mộc sinh Hỏa, mùa Xuân cường tráng, cũng cần có Thủy nhuận có căn là mộc hỏa vừa phải không phát tán khí lực quá sớm.

- Thủy sinh Mộc, nếu hàn đóng băng thành đống, thủy chẳng sinh được cho Mộc, cần Hỏa cho Mộc được tiết khí thì mới phồn vinh.

Tức là về thể chất mà nói thì Hạ lệnh không thể không có Thủy, Đông lệnh không thể không có Hỏa. Vì thế mới nói rằng, Sinh chẳng phải là Sinh, Khắc Tiết cũng là Sinh.

Cần phải tỏ rõ sinh vượng khắc chế là nắm được cơ bản của sự vận động ngũ hành.