Thứ Bảy

Âm Dương lệch

Nói đến Âm Dương Lệch, thật ra cũng chỉ là 1 thuyết của Tiết Khí. Vua Chu Công viết là có 24 Tiết Khí, 72 Tiết Hậu. Cứ 5 ngày là 1 tiết hậu, 1 tháng có 6 tiết hậu, 5 x 6 = 30 ngày, như vậy cứ 3 tiết hậu là 1 Khí 15 ngày.

15 ngày này lại tính trong Lục thập hoa Giáp từ Giáp Tí cho đến Quí Hợi, chia ra làm 4. Thành thử cứ tính cách 12 ngày là có 3 ngày Âm Dương "xô đẩy" nhau (từ này trong sách TVH). Những ngày này tại vì tính sẵn trong Lục thập Hoa Giáp nên ta có:

Bính Tí, Đinh Sửu, Mậu Dần
Tân Mão, Nhâm Thìn, Quí Tị
Bính Ngọ, Đinh Mùi, Mậu Thân
Tân Dậu, Nhâm Tuất, Quí Hợi

Để ý rằng các ngày này không dính dáng gì đến sự chuyển tiếp của Tiết Khí mà trong Tử Bình dùng (Lập Xuân qua Kinh Trập, rồi tới Thanh Minh...v.v...) mà chỉ là cách tính "tiết hậu" trong Lục Thập Hoa Giáp mà thôi. Nếu ai học Thái Ất (dương độn, âm độn) thì chắc rõ hơn nhiều.

Thành thử đó cũng chỉ là 1 thuyết để chiêm nghiệm và không nhất thiết chỉ nói đến chuyện "giới tính". Thường là "hôn nhân không thuận" là đề tài. Nhưng thực tế thì nên xem xung khắc giữa các Chi là rõ nhất. Chỉ có 1 trụ ngày thì không xác định được gì. Vì Tử Bình là tính chung toàn diện năm tháng ngày giờ, cung mệnh, đại hạn, lưu niên...và không loại trừ 1 "trụ" nào, nhưng không 1 trụ nào đứng độc lập mà có ý nghĩa chính.

Tứ trụ "thuần dương" hay "thuần âm" cũng thế, là nói trong quan niệm trên. Việc này thường hay nói đến Can, nhưng Chi thì đã rõ là không phải Chi nào cũng thuần. Nếu chỉ nói đến bản khí thì Tị và Ngọ tàng âm dương khác. Nhiều dương quá hay nhiều âm quá thì tính chất cường rất mạnh, nhưng suy thì sụp nhanh chóng, vì nó lộ quá. Nói vậy, không phải thuần âm mà không gọi là không "lộ". Ở đây là nói tính chất thấy rõ của lọai âm hay dương cực mạnh hay thuần tính, tuy rằng 100% là không bao giờ có.

Hình Xung Khắc Hại giữa địa chi

Sau khi xác định cơ bản tính chất của nhật chủ và lệnh tháng không có Ấn Kiêu để sinh trợ cho thân, việc quan sát tứ trụ tiếp tục với sự quan hệ giữa các Địa Chi. Bạn nên thuộc bảng sinh, khắc, hình, hại, phá, hợp, không vong, vì sẽ phải dùng đến trong nhiều phần khác trong cung mệnh, đại vận, lưu niên.

1). Tìm xem mối quan hệ giữa các địa chi trong bốn trụ. Với thí dụ ở phần 1, ta thấy chi Dậu hại chi Tuất:

Năm: Bính Tuất
Tháng: Đinh Dậu
Ngày: Quí Hợi
Giờ: Bính Thìn

Nhắc lại các loại Hình, Hại, Xung, Phá, Hợp đều phải đứng cạnh nhau trong tứ trụ thì mới tính. Như thí dụ trên thì Dậu không có quan hệ gì với Hợi và Thìn, mà chỉ tính Tuất Dậu thuộc loại Hại.

2). Xem mối quan hệ lục thân của các trụ. Căn bản thì các trụ đại diện cho mối quan hệ họ hàng như sau:

Năm: tổ tiên, ông bà
Tháng: cha mẹ
Ngày: Can: chính mình, Chi: chồng, vợ
Giờ: con cái

Với thí dụ Dậu hại Tuất ở 2 cung năm và tháng, có thể cho thấy sự mâu thuẫn hay khó khăn xảy ra giữa ông bà và cha mẹ.

3). Bây giờ là đến phần so sánh các loại hình hại xung khắc giữa tứ trụ và đại vận. Bạn phải biết cách lập đại vận là tính từ tháng. Nam sinh năm dương là dương nam, nữ sinh năm âm là âm nữ, đều tính thuận từ tháng trở đi. Ngược lại, âm nam và dương nữ phải tính ngược. Điều này không nói lên sự việc vận đi thuận là tốt và vận đi nghịch lại là xấu. Hoàn toàn phải dựa vào ngũ hành thuận lợi hay bất lợi thì mới biết là vận thuận hay nghịch vận. Nhưng ở đây ta chỉ chú trọng vào mối quan hệ giữa các Chi với nhau để có một cái nhìn tổng quát. Lại xin nhắc lại rằng không phải Khắc là luôn luôn xấu và Hợp luôn luôn tốt. Đôi khi các kị thần họp lại với nhau thì thân chủ càng thêm mệt, vì sự khắc chế nặng nề, cho dù vận đó trên thiên can xem như là thuận lợi.

Có người chỉ xem địa chi của Vận, không xem thiên can là quan trọng vì cho rằng Can là thứ yếu. Tôi xem cả hai như nhau, nhất là khi Thiên can biểu hiện lại sự xung khắc sẵn có trong tứ trụ. Thí dụ như Nhâm khắc Bính trong trụ, đến vận Nhâm thì điều khắc chế này sẽ xảy ra, cho dù địa chi mang hành dụng thần của mình. Sự khắc chế này giảm thiểu hay mất hẳn đi lại là một phần khác, xin nói rõ sau.

Trở lại tứ trụ của cháu trai và đại vận cùng mối quan hệ giữa các địa chi với nhau:

Năm: Bính Tuất
Tháng: Đinh Dậu
Ngày: Quí Hợi
Giờ: Bính Thìn

2-11 tuổi: Mậu Tuất
12-21 tuổi: Kỉ Hợi
22-31 tuổi: Canh Tí
32-41 tuổi: Tân Sửu

Theo bảng hình hại ta nhận thấy
-Vận Mậu Tuất: Tuất phá Dậu
-Vận Kỉ Hợi: Hợi hình Hợi
-Vận Canh Tí: Tí bán hợp với Thìn thành Thủy cục, và Tí đồng thời cũng phá Dậu
-Vận Tân Sửu: Sửu-Tuất-Thìn là 1 loại tam hình

4). Sau đó là nhận định thêm vài khía cạnh khác thông qua lục thân.

- Vận Kỉ Hợi hình thành loại Hình này ở trụ ngày là có liên quan đến người trong nhà. Hợi cũng là Thủy tức là Kiếp của nhật chủ Quí, thì có thể đoán sự việc xảy ra giữa mình và anh chị em hoặc bà con đang ở trong nhà mình. Trụ ngày với Chi là nói đến chồng vợ, nhưng cũng đề cập đến “nhà” tức là căn hộ mà nhiều người sống chung trong đó một thời gian lâu, không chỉ nói đến chồng hay vợ. Nhất là đại vận Kỉ Hợi này cậu bé mới chỉ 12-21 tuổi thì không nói hẳn được về người vợ. Lại nữa, khi thấy chi của trụ ngày bị hình thì cậu ta không dễ gì lấy vợ sớm khi 20 tuổi. Cũng nên tùy theo vận tuổi mà linh động xét đoán.

- Vận Canh Tí thấy có lọai Phá giữa Tí Dậu, đụng chạm với trụ tháng. Có thể đoán một sự khó khăn hay có vấn đề cãi cọ, xung khắc xảy ra giữa mình và cha mẹ, hoặc giữa mình và một người có chức vị cao hơn mình, bởi vì trụ tháng còn đại diện cho ông chủ, người cấp cao hoặc đại diện pháp luật. Đồng thời Tí bán hợp Thìn là Thủy cục, cũng có thể dễ luận đoán thân chủ sẽ có khuynh hướng ngã về các loại tứ đổ tường, thí dụ như rượu, nghiện ngập. Nếu nhẹ hơn là bị sức ép ở chỗ làm hoặc gia đình. Canh Tí vận ở giai đoạn đang làm việc và xây dựng bản thân nên nghiêng về giải đóan sinh hoạt nghề nghiệp là đúng nhất.

Những người chưa làm quen với Tử bình lâu ngày sẽ rất dễ nhớ phần hình xung khắc hại giữa các chi, vì chúng ta ai cũng thuộc Ngũ hành, 12 địa chi và 10 Can. Đấy là một thuận lợi cho bước đi ban đầu. Những phần khó hơn như thập thần, thần sát, dụng thần, kị thần… v.v… thật ra cũng xuất phát từ các sự liên hệ giữa ngũ hành và can chi. Sau khi nắm vững bảng tứ trụ và đại vận với các bước đi giản đơn như trên, sẽ không khó khăn gì khi bắt đầu học các thuật ngữ mới.

Khi một hành yếu kém...

Khi một hành yếu kém hoặc thiếu hẳn trong tứ trụ, có những mấu quan trọng:

- Hai hành hai bên trực tiếp có tác động mạnh, thí dụ như kim thiếu thì thổ và thủy "lên tiếng", có nghĩa là:

a/ Thổ không có chỗ để tiết khí (để sinh cho) thì sẽ đi khắc Thủy mạnh hơn; giả dụ như ăn học ra trường mà không có chỗ làm thì sẽ làm gì? Có người ra kinh doanh, có người thành công, người thất bại. Trong số thành công mấy ai thích thú thực sự với chuyện mình làm? Người thất bại đổ thừa số phận, hay là xoay trở khó khăn hơn. Nói chữ "khắc" hiểu là như vậy, tức là giải thích nhiều khía cạnh về tâm lý không hài lòng, phải cam tâm gắng chịu, hoặc thiếu phúc đức hơn thì suốt đời lao khổ.

b/ Thủy không có Kim hỗ trợ thì bị lực khắc của Thổ làm cho yếu đi và vì thế mà sinh cho Mộc không đủ, giống như mẹ mà bịnh thì con nhỏ bị lây trước hết. Giống như trên, thí dụ cho thấy điều thiếu may mắn như thế.

Trong tử bình lực đối xung không phải luôn luôn là xấu, ngược lại cần có chúng để sinh tồn (như Thổ và Thủy vậy), tuy vậy, nếu không có bảo hộ thì giống như nhà không có nóc vậy, bạn chạy đi đâu cũng không khỏi nắng.

Khi thiếu 1 hành trong trụ, nói về tính cách của con người là điều trước tiên vì chủ nhân của tứ trụ sẽ kiếm khuyết hẳn đặc điểm đó và sẽ có khuynh hướng "nghịch đảo", đơn giản thôi, đó là vì bản năng sinh tồn của con người là vậy, nếu không được sinh cho thì phải "khắc", phải vất vả, phải tìm kiếm, lao tâm lao lực mới sống được.

Tính cách được hình thành dần dần từ bản khí như thế đậm sâu qua môi trường sinh sống là xã hội, trong đó có gia đình, trừong học, bạn bè. Từ tính cách đó mới tạo nên số phận của bạn, không có gì khó hiểu.

Khi chúng ta còn nhỏ, rất hiếm khi hiểu được Dịch lý, chẳng có ai chỉ dạy điều thuận nghịch của trời đất, xã hội ngày nay Nho học đã tàn nên những điều này xem như là khách quan. Từ một nhân hai, nhân bốn, tiếp nối như vậy, một thế hệ nhanh chóng hình thành một tính cách đại chúng rồi. Có nói nhiều đi chăng nữa, thì lý luận cuả người học Dịch ngày nay khác xa thời trước, vì thế nên mà luận tính cách và số phận tùy thuộc vào môi trường sinh hoạt, cội rễ của nó là gia đình và phương hướng sinh sống, làm việc.

Vậy bậc cha mẹ tìm hiểu Dịch lý rất muốn cân bằng lại cho con cái điều kiếm khuyết này. Như thế nào?

- qua cách đặt tên cũng được, nhưng phải tìm thầy đồ, thầy Nho viết sang tiếng Hán, có ý nghĩa bổ sung thôi, quan trọng là không dài quá, không ngắn quá, không cần "nổ", "kêu" quá cũng không quá khiêm nhường. Để ý đến cách đọc tên, vần bằng trắc có đủ, ý nghĩa của tên là quan trọng nhất.

- lúc còn nhỏ thì cách ăn uống và chỗ ngủ là quan trọng vì thời gian của nó ở phương hướng đó chiếm nhiều nhất. Thiếu hành nào thì chú ý phương hướng của hành đó; thiếu mộc thì ngã về đông, đông bắc, thiếu kim thì để giường ngủ vào cung Đoài, phía Tây mà khỏi cần phải di chuyển hẳn đi nơi khác. Tránh gió lùa ở mé nào thì tùy theo nơi ở, và những điều căn bản nhất về vệ sinh, nhà ở thì cũng tùy chỗ sinh hoạt, nên theo đó là làm để khỏi lệ thuộc thái quá đâm ra "mê tín".

- sức khỏe của những trụ thiếu ngũ hành thường hay mất cân bằng, đầu tiên là hành thiếu, sau đó là hành nó đi khắc và hành khắc nó. Thí dụ: kim thiếu thì mộc và hỏa có tác động lên sức khoẻ, nên trẻ nhỏ hay đau đầu, suy nhược, mạch loạn, nổi ban sớm...

- tìm người có hành thích hợp mà ta thiếu để nương tựa vào, âm thì tìm dương, dương thì tìm âm. Bởi thế nên lâu nay có nhiều cách nói là "bán khoán", "làm con nuôi họ khác"... cũng không ngoài mục đích này. Nhưng phải là một thời gian dài và ở gần mới được. Vì tính cách của người kia sẽ điều hòa lại sự kiếm khuyết bên này. Rất dễ hiểu là ta hay nói đến chữ "đền bù", "lấp đầy"... và cảm thấy rất hài lòng.

Vì khi nói đến sự kiếm khuyết của một người, tại sao không nói đến sự dư thừa của người khác? Cả hai đều có "khuyết điểm" và khi kết hợp được với nhau thì rất tốt cho cả hai. Tất cả mọi việc trong trời đất hài hòa và duy trì được sự sống không ngoài hai mặt khác biệt, nhưng dựa vào nhau mà tồn tại: có nóng có lạnh, có sáng có tối...Không có thái cực nào mà lâu bền.

Tử bình giải thích vòng trường sinh âm dương, thuận nghịch là như vậy. Tại sao không thuận mà nghịch lại để làm gì? Nếu ai nhìn vào Bát quái đồ cho kỹ thì rõ ràng là thấy được điểm "gặp gỡ" của 1 ngũ hành trong vòng âm dương này: chúng tập hợp lại ở cung Đế vượng và Lâm quan.

Hợp hóa giữa các CAN

Giáp - Kỷ hóa Thổ
Ất - Canh hóa Kim
Bính - Tân hóa Thủy
Đinh - Nhâm hóa Mộc
Mậu - Quý hóa Hỏa

Những trường hợp trên có khi hóa thật, có lúc hóa giả, tùy theo Chi. Nếu Can được thông gốc thì hóa thật, ngoài ra là hóa giả. Khi 2 can được yểm trợ đúng từ gốc thì sự hợp hóa hữu tình, thuận lý; hóa giả là chỉ có bề ngoài. Khi can đại vận hợp hóa với 1 can trong tứ trụ mà hóa giả, nên cẩn thận trong quan hệ với nhau, vì hình thức bề ngoài sẽ không phản ánh đúng bản chất đối xử. Mức độ nặng nhẹ tùy theo tứ trụ, tùy theo hóa ra dụng thần hay kỵ thần, hóa ra Quan hay Tài.

Cụ thể hóa hợp thật và giả như sau:
1- Giáp Kỷ
Giáp phải có chi thuộc Thổ hay Hỏa. Quan hệ được sinh ra là hành Thổ, thuộc tính trung chính, tiến triển vững mạnh. Thí dụ: Giáp Tuất và Kỷ Mùi: hóa thật

Nếu Giáp có chi thuộc thủy, mộc hay kim thì Giáp sẽ chú ý đến các quan hệ của cha mẹ, bạn bè hoặc sự nhọc nhằn của công việc và mối quan hệ với Kỷ sẽ lỏng lẻo gượng ép. Thí dụ: Giáp Tí với Kỷ Tỵ: hóa giả

2- Ất Canh
Ất cần có gốc là Thổ hay Kim để hỗ trợ hành hóa là Kim. Nếu hóa thật, Ất sẽ hết lòng phụ trợ cho Canh, gọi là có nhân có nghĩa thật sự. Thí dụ: Ất Sửu và Canh Thìn.

Hóa giả là khi Ất có chi thuộc mộc hay thủy. Thí dụ như Ất Mão và Canh Tí. Đấy là "giả nhân giả nghĩa".

3- Bính Tân
Bính và Tân đều phải có cùng chi thuộc thủy, kim hoặc Thìn. Nếu hóa thật thì hành thủy sẽ được tận dụng khả quan. Đây là hóa uy lực, vào vận cần có Quan hay Sát thì quyền uy vào bậc nhất. Thí dụ Bính Thìn và Tân Hợi.

Bính mà gặp chi thuộc hỏa sẽ khắc Tân kim. Tân mà không có thủy hoặc kim làm gốc thì Tân sẽ phản lại Bính. Thí dụ Bính Ngọ và Tân Sửu. Khi gặp vận này hoặc ngay chính tứ trụ thì làm việc tầm thường, kém thế, phận mỏng.

4- Đinh Nhâm
Đinh và Nhâm cả hai đều phải có mộc hay thủy trợ lực cho hành hóa là Mộc. Quan hệ sẽ rất sâu đậm. Thí dụ như Đinh Hợi và Nhâm Dần.

Hóa giả tạo là khi Nhâm gặp chi thủy và Đinh gặp chi hỏa. Cả hai ngược lại sẽ đấu đá nhau sau một thời gian có hấp lực ngắn ban đầu. Thí dụ Đinh Tỵ và Nhâm Tí.

5- Mậu Quý
Mậu thổ và Quý thủy phải có chi mộc hoặc hỏa làm gốc. Như vậy hành hóa là Hỏa sẽ được mạnh mẽ. Thí dụ Mậu Ngọ với Quý Tỵ.

Cả Mậu lẫn Quý đều gặp chi thủy thì ngược lại, hành thủy quá nhiều, quá hàn lạnh nên hành hóa là hành Hỏa sẽ sớm nguội tan. Vì thế mới nói rằng quan hệ hóa giả này là quan hệ vô tình.

Qua các thí dụ và kiểm nghiệm thực tế sẽ hiểu được tính chất thật của quan hệ hợp hóa; không giống như trong sách chỉ viết ngắn gọn và không giải thích tại sao. Tóm lại, quan trọng là có Chi trợ đúng lực nên Can mới vững. Sự hợp hóa nào cũng thành, tức là có xảy ra, nhưng chỉ khác nhau ở sự phân biệt hóa hữu tình hay hóa vô tình mà thôi.

Diana, công nương xứ Wales

Công nương xứ Wales sinh 1.7.1961, 19:45

SÁT.......KIẾP................THƯƠNG
Tân Sửu - Giáp Ngọ - Ất Mùi - Bính Tuất

Vận: Ất Mùi, Bính Thân, Đinh Dậu, Mậu Tuất

Sinh tháng Ngọ, hỏa vượng, thổ tướng, thân Ất âm mộc vừa cạn kiệt đang hưu tù, thủy cũng bốc hơi tan biến nên phần ấn sinh cho rất yếu. Tất cả can trong trụ đều không có khí gốc hỗ trợ (bản khí tàng trong chi). Thổ trong trụ là Tài vượng, lộ ở chi ngày, nhưng Quan tinh không có, kể như một thí dụ của việc có chồng cũng như không, hoặc là tình yêu thực sự không có.

Hàm trì Đào Hoa nói lên được tính cách không thuận vợ thuận chồng trong tứ trụ này. Trụ năm và trụ ngày rất kém lại thiên khắc địa xung, không có cát thần tạo phúc, nên mệnh rất mỏng manh, không vững.

Xấu nhất là trụ có tam hình Sửu Tuất Mùi chực sẵn. Ngọ Tuất vượng hỏa sinh Tài khắc thân. Kỵ thần tất nhiên là Thổ, trong khi dụng thần (khả dĩ) là Quý không có lực. Vậy ta biết là chuyện gì sẽ xảy ra khi vận Thổ lên, một điều không tránh khỏi! Hỏa Thổ tương sinh cùng vượng làm tứ trụ quá nóng, không thích hợp với Ất mộc.

Vận Bính Thân, Bính hợp Tân hóa thủy, mọi việc êm đẹp, cuối vận lấy chồng lên ngôi công chúa. Vận Đinh Dậu bắt đầu khổ sở tinh thần từ 90, vì Đinh hỏa khắc Tân kim trụ năm, Kỷ thổ đáng lý ra là can hóa giải giữa Đinh và Tân, nhưng vì Thổ là kỵ thần nên ngược lại còn làm tình thế trầm trọng hơn.

Đầu vận Mậu Tuất, Tài vận lên bị Kiếp đoạt (trụ tháng), đấy là tượng hôn nhân đổ vỡ, ly thân, ly dị. Điều xấu nhất trong vận này như đã nói là tam hình gặp đủ: Sửu Tuất Mùi. Năm Sửu gặp vận Tuất cùng với ngày Mùi, bị tai nạn xe năm Đinh Sửu dưới hầm đường xe chạy. Cái nạn Thổ đã tự biểu lộ quá đầy đủ trong các tiêu chí vừa kể:
- các chi đều thổ
- nơi xảy ra tai nạn cũng là 1 loại thổ vì đường hầm đào ở dưới đất
- hành Kim tử mùa Hè ở đây chính là chiếc xe hơi

Tam hình Sửu Tuất Mùi là loại hình thường cho thấy người trong cuộc gặp một trường hợp không thể tự mình thoát ra được, một vấn đề vô phương cứu chữa, mà nguyên nhân là chuyện không đề phòng, không cẩn thận của chính họ.

Vòng trường sinh

Tháng sinh trong năm là một trong những quy ước của Tử bình để tính ra được thân vượng hay nhược. Nó là bước đầu tiên quan trọng khi bạn nhìn vào một tứ trụ. Tiết Khí trong tháng đó chứa những nhân nguyên (can tàng độn) chính mà chúng ta gọi là "Lệnh". Từ Lệnh này mà suy ra được sự vượng, suy của 3 trụ kia, cho nên tháng sinh có yêu cầu cao khi xem xét.

Vài từ quen dùng trong Tử bình:
- Vượng: thịnh vượng, hưng vượng, sáng sủa, tốt đẹp
- Nhược: suy, yếu, tàn
- Tiết Khí: một năm có 24 Tiết Khí, trong đó chia ra 12 Tiết và 12 Khí được tính theo dương lịch (kinh độ mặt trời). Thường thì người ta hay nói chung là tiết khí, nhưng đúng ra thì gọi Tiết Lập Xuân, Khí Vũ Thủy.
- Nhân nguyên: như đã có trình bày, mỗi một Chi đều có đủ 5 hành, nhưng chỉ có các Can tàng có ngũ hành hữu dụng trong Chi đó mới được nêu ra. Có khi bạn chỉ thấy Can bản khí mà thôi, thí dụ như tiết Kinh Trập, can tàng chính là Ất, nhưng thật ra còn có Giáp hành quyền 10 ngày đầu, sau đó mới tới Ất. Lý do là Giáp từ Khí của Tiết Lập Xuân còn lại.
- Lệnh: tức là hành chính của khoảng thời gian đó, nói rõ hơn là Can nào đại diện chính để biết nhật chủ (Can ngày) có tính cách vượng hay suy.

Có 5 Can dương: Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm
5 Can âm: Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý

Vòng trường sinh của vạn vật không thay đổi theo chu kỳ đi tới:
1. Trường sinh: mọc nầm, nảy sinh
2. Mộc dục: vừa được sinh ra, lố dạng
3. Quan đái: dần dần mạnh lên
4. Lâm quan: trưởng thành
5. Đế vượng: thành thục, mạnh mẽ cực độ
6. Suy: bắt đầu giảm chất lượng
7. Bệnh: khốn đốn, cơ cực
8. Tử: bị diệt, suy tàn
9. Mộ: trở về nơi tàng trữ
10. Tuyệt: tất cả các khí bị mất hết
11. Thai: khí lại bắt đầu giao nhau, kết thành thai
12. Dưỡng: đang phát mầm mống

Can dương thì đi thuận, can âm tính ngược trong vòng Trường sinh. Nói thế không phải là can âm bị tính từ Dưỡng trở về Trường Sinh, mà tính từ Ngọ là thời điểm dương đã lên cao, bắt đầu trở về quy trình âm.

Một ngày bắt đầu từ giờ Tí cho đến giờ Ngọ giữa trưa là đã thấy bắt đầu âm sinh trưởng, chiều tối đến giờ Hợi là chấm dứt một vòng. Vì thế các can âm trường sinh (bắt đầu lố dạng) tại nơi mà các can dương ở giai đoạn Tử.

Địa chi hành quyền trong tháng

Tử bình lấy ngày làm chủ và tiết tháng làm lệnh. Hai trụ này là không gian chính của thời điểm một người sinh ra đời. Trụ năm đã được tính theo vòng 60 niên mệnh, còn trụ giờ có tầm ảnh hưởng nhất định theo ngày.

Con người quá bé nhỏ trước một nguyên vận 180 năm, đối với 60 năm trung bình một đời người còn khả dĩ xem xét được, nên 12 tiết lệnh của tháng trong năm có tầm quan trọng lớn nhất của tứ trụ. Còn trụ giờ bổ sung vào làm cho sự tính toán có thể "nhìn thấy" được.

Nếu bạn nào đã có kinh nghiệm, thường thì khi có đủ 3 trụ là có thể suy ra được trụ giờ cho một cá thể thông qua vài phương pháp khác như nhân tướng học và xã hội học.

Quá trình từ sinh cho đến tử của vạn vật có thể chia ra làm 5 giai đoạn lớn hợp với sự sinh khắc của 5 Hành:

-Vượng: giai đoạn đang trên đà phát triển mạnh
-Tướng: giai đoạn đã phát triển, nhưng đứng yên
-Hưu: giai đoạn nghỉ ngơi, không còn sức phát triển nữa
-Tù: giai đoạn suy giảm, sa sút
-Tử: giai đoạn bị khắc chế hoàn toàn, sự vật chết

Trung bình cho 1 năm nếu tính gọn là 360 ngày thì mỗi một giai đoạn trên chiếm 72 ngày. Một năm chia ra làm 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông có 24 tiết khí thì mỗi tiết trung bình chiếm 15 ngày. Nhưng theo các địa chi hành quyền trong 12 tháng có tàng chứa bản khí, trung khí và khí thừa khác nhau thì số ngày này được tính tùy theo tháng với 12 khí chính như sau (can cuối cùng là bản khí):

Tháng Giêng - Dần - Lập Xuân
- Mậu và Kỷ chung 7 ngày, Bính 7 ngày, Giáp 16 ngày
Tháng Hai - Mão - Kinh trập:
- Giáp 10 ngày, Ất 20 ngày
Tháng Ba - Thìn - Thanh Minh:
- Ất 9 ngày, Quý 3 ngày, Mậu 18 ngày (thổ cuối mùa)

Tháng Tư - Tỵ - Lập Hạ:
- Mậu 5 ngày, Canh 9 ngày, Bính 16 ngày
Tháng 5 - Ngọ - Mang Chủng:
- Bính 10 ngày, Kỷ 9 ngày, Đinh 11 ngày
Tháng 6 - Mùi - Tiểu Thử:
- Đinh 9 ngày, Ất 3 ngày, Kỷ 18 ngày (thổ cuối mùa)

Tháng 7 - Thân - Lập Thu:
- Mậu và Kỷ chung 10 ngày, Nhâm 3 ngày, Canh 17 ngày
Tháng 8 - Dậu - Bạch Lộ:
- Canh 10 ngày, Tân 20 ngày
Tháng 9 - Tuất - Hàn Lộ:
- Tân 9 ngày, Đinh 3 ngày, Mậu 18 (thổ cuối mùa)

Tháng 10 - Hợi - Lập Đông:
- Mậu 7 ngày, Giáp 5 ngày, Nhâm 18 ngày
Tháng 11 - Tý - Đại Tuyết:
- Nhâm 10 ngày, Quý 20 ngày
Tháng 12 - Sửu - Tiểu Hàn:
- Quý 9 ngày, Tân 3 ngày, Kỷ 18 (thổ cuối mùa)

Thìn Tuất Sửu Mùi có vị trí chuyển giao mùa rất rõ và chúng hành quyền vào những ngày cuối mùa rất mạnh. Khi đã sang mùa, hành Thổ đó còn lại vài ngày gọi là "dư khí".

Bản khí là hành cùng với địa chi, sang tháng sau, hành đó đọng lại vài ngày nhưng chỉ là dư khí. Thí dụ như cuối Lập Xuân, dương mộc (Giáp) mạnh, sang tháng Hai, 10 ngày đầu vẫn còn khí thừa của Giáp, nhưng không mạnh bằng.

Những tháng giữa mùa như tháng Mão (2), tháng Ngọ (5), tháng Dậu (8) và tháng Tý (11) thường được cho là thuần khí nhất vì là cao điểm của mùa nên có thể chỉ tính bản khí mà thôi. Thí dụ như tháng Mão thuần Ất mộc, âm tính mạnh.

Khi xét đoán lệnh tháng, cần nhớ những điều này để chọn dụng hỉ thần, vì nếu bản khí không mạnh thì không nên chọn, dụng thần sẽ không có lực.

Tam hội / Tam hợp địa chi

Để ý rằng khi nói đến Địa Chi thì không đề cập đến quan hệ tương sinh (thí dụ như không nói Tí sinh Mão, hay Thìn sinh Dậu..) mà chỉ luận đến quan hệ KHẮC, XUNG, HÌNH, HẠI của các chi lẫn nhau mà thôi.

Nhưng các Chi có hợp lại thành HỘI hay thành CỤC, cũng là nằm trong ý nghĩa của sự tương trợ, tương sinh cho nhau và chỉ có ảnh hưởng mạnh khi chúng tụ họp lại. Khi xét trong Tử bình, đầu tiên là xét Tam hội, sau đó là Tam hợp Cục, vì lý do khí của tam hội mạnh hơn khi chúng dồn về 1 phương hướng, khí của chúng "thuần" nên rất mạnh, còn Tam Cục thì do vòng trường sinh tạo thành, lẫn nhiều tạp khí.

Cát hay hung của Hội hay Cục là tùy theo tứ trụ. Có khi cần phải cần giải tán Hội, Cục để cứu lấy thân.

* Tam Hội
1) Phương Đông Mộc = Dần Mão Thìn
2) Phương Nam Hỏa = Tị Ngọ Mùi
3) Phương Tây Kim = Thân Dậu Tuất
4) Phương Bắc Thủy = Hợi Tý Sửu

Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là thổ trung ương, theo tiết trời là những tiết cuối của 4 mùa.

* Tam Cục
1) Thủy Cục = Thân Tí Thìn
2) Mộc Cục = Hợi Mão Mùi
3) Hỏa Cục = Dần Ngọ Tuất
4) Kim Cục = Tị Dậu Sửu

Theo bảng Sinh Vượng Tử Tuyệt của ngũ hành, thí dụ như hành Thủy trường sinh ở Thân (kim sinh thủy), vượng ở Tí (thủy đồng hành) và mộ ở Thìn (thổ cuối mùa Xuân), cho nên Thân-Tí-Thìn hợp lại thành Cục Thủy.

Các Thiên Can có quan hệ với nhau thì đầy đủ, có Sinh, có Khắc, có Hợp và Hóa. Chính vì thế mà dưới các Chi lại phải tìm Can tàng trong nó, tức là bản khí trời sinh ra của nó. Có Chi thuần khí, có Chi bị tạp khí. Nhưng chung quy là Tử bình xét qua Địa nguyên (CHI) tìm lại bản chất khí ban đầu của Thiên nguyên (CAN), và như thế cũng là tìm được Nhân nguyên (NGƯỜI).

Đó là thuyết Tam Tài. Thiên Can là trời cho, Địa nguyên là do sinh khí của đất, của cha mẹ tổ tiên, còn Can tàng ẩn trong địa chi đó chính là con người của ta nằm trong môi trường đang có. Vì thế nên luôn luôn có sản sinh ra cái mới mặc dù có sự lập lại của tứ trụ.

Đây là mấu chốt để hiểu tứ trụ là quan niệm của Tam Nguyên Vận Khí là như vậy.

Lý thuyết căn bản

Âm và Dương là 2 cực khác nhau, như Sáng và Tối...
10 thiên can, 12 địa chi chia ra thành nửa phần đối đãi nhau.

Can và Chi được giải thích là những giai đoạn sinh trưởng có trật tự cố định trong trời đất, từ lúc nẩy mầm, vươn lên, trưởng thành, thuần thục, kết hoa trái, thành quả, sinh hạt, suy tàn và chết.

- Can dương: Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm (+)
- Can âm: Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quí (-)

- Chi dương: Dần, Ngọ, Thìn, Tuất, Thân, Tí (+)
- Chi âm: Mão, Tỵ, Sửu, Mùi, Dậu, Hợi (-)

Ngũ hành là 5 khí tương tác lẫn nhau làm cho sự vật ra đời: Thổ, Kim, Mộc, Thủy, Hỏa. Ngũ hành cũng chia 2 loại Dương và Âm.

- Giáp= Can Dương Mộc
- Ất = Can Âm Mộc
- Bính = Can Dương Hỏa
- Đinh = Can Âm Hỏa
- Mậu = Can Dương Thổ
- Kỷ = Can Âm Thổ
- Canh = Can Dương Kim
- Tân = Can Âm Kim
- Nhâm = Can Dương Thủy
- Quý = Can Âm Thủy

- Thìn, Tuất = Chi Dương Thổ
- Sửu, Mùi = Chi Âm Thổ
- Thân = Chi Dương Kim
- Dậu = Chi Âm Kim
- Tí = Chi Dương Thủy
- Hợi = Chi Âm Thủy
- Dần = Chi Dương Mộc
- Mão = Chi Âm Mộc
- Ngọ = Chi Dương Hỏa
- Tỵ = Chi Âm Hỏa

Tính chất của các Can và Chi cùng khí chất kể trên có quan hệ với nhau theo nguyên lý của Dịch, chúng ta chỉ cần nắm vững các nguyên tắc này:

1. Đồng hành, đồng cực thì đẩy nhau (kỵ nhau nhưng không hại nhau):
- Thìn Tuất (cùng là +Thổ); Sửu Mùi (cùng là -Thổ)

2. Đồng hành mà khác cực thì hút nhau (tương trợ cho mạnh lên):
- Giáp Ất (+ - Mộc)
- Bính Đinh (+ - Hỏa)
- Mậu Kỷ (+ - Thổ)
- Canh Tân (+ - Kim)
- Nhâm Quý (+ - Thủy)
- và các Chi: Tý Hợi, Tỵ Ngọ, Dần Mão, Thân Dậu

3. Khác hành mà nghịch nhau (hành này hủy diệt hành kia):
- Thủy khắc Hỏa
- Hỏa # Kim
- Kim # Mộc
- Mộc # Thổ
- Thổ # Thủy

4. Khác hành mà tương sinh (hành này sinh lợi cho hành kia):
- Thủy sinh cho Mộc
- Mộc > Hỏa
- Hỏa > Thổ
- Thổ > Kim
- Kim > Thủy

5. Khác hành mà đồng cực thì càng sinh hoặc khắc mạnh hơn! Nếu là tương sinh thì hành đi sinh lợi sẽ bị hao tổn khí lực, hành được sinh sẽ vững mạnh. Nếu là tương khắc thì hành đi khắc cũng hao mòn rất nhiều và hành bị khắc đã yếu lại còn yếu hơn, mau chóng lụi tàn!

6. Khác hành mà khác cực: Tốt hay Xấu thì tùy theo tính âm dương của 2 đối tượng.
- Nếu chủ thể là dương mà bị thể là âm thì sự sinh hay khắc bình thường, thuận lý âm dương.
- Nếu chủ thể là âm, bị thể là dương thì sinh/khắc yếu đuối. Đôi khi chủ thể âm trường hợp này còn đau đầu xứt trán là khác nếu không có cứu giúp!

Các thí dụ thì phải tìm trong các bảng Can/Chi hợp/xung/hình/hại

Chủ yếu biết đó là những trường hợp cần chú ý nhất khi chọn dụng thần sau này. Trong tử bình có nhiều từ ngữ riêng, thí dụ như "chế"; "hóa"..., nhưng đơn giản để hiểu là như Hỏa mà yếu thì không chế được Kim mạnh (lửa của cây đèn cầy làm sao đúc được một thanh kiếm?); Mộc âm thì sinh thế nào cho Hỏa dương (gỗ ướt nhẹm làm sao đốt thành lửa?)...

6 trường hợp trên sẽ gặp phải trong những cách xung, hợp, khắc, hại của Can và Chi như sau:

* CAN hợp nhau:
- Giáp +mộc hợp Kỷ -thổ (hóa Thổ)
- Ất -mộc hợp Canh -kim (hóa Kim)
- Bính +hỏa hợp Tân -kim (hóa Thủy)
- Đinh -hỏa hợp Nhâm +thủy (hóa Mộc)
- Mậu +thổ hợp Quý -thủy (hóa Hỏa)

Những cặp trên gặp nhau có HỢP nhưng không phải lúc nào cũng HÓA được (tức là 2 hành hợp lại chỉ còn 1 hành và rất mạnh). Cũng vậy, khi Chi gặp nhau mà tương hợp cũng sẽ có khi hóa được nếu gặp điều kiện đúng:

* CHI hợp nhau - Có 2 trường hợp khác biệt cần chú ý vì hay nhầm lẫn:
1)- Lục hợp âm dương (1 âm và 1 dương khác hành, hợp nhau gặp đúng điều kiện sẽ hóa chung lại thành 1 hành):
- Tí +thủy hợp Sửu -thổ (hóa Thổ)
- Hợi -thủy hợp Dần +mộc (hóa Mộc)
- Mão -mộc hợp Tuất +thổ (hóa Hỏa)
- Thìn +thổ hợp Dậu -kim (hóa Kim)
- Tỵ -hỏa hợp Thân +kim (hóa Thủy)
- Riêng Ngọ +hỏa là Thái Dương và Mùi -thổ là Thái Âm có hợp mà không bao giờ hóa.

2)- Nhị hợp âm dương (1 âm và 1 dương cùng hành):
- Tý Hợi (+ - thủy)
- Dần Mão (+ - mộc)
- Tỵ Ngọ (+ - hỏa)
- Thân Dậu (+ - kim)
- Cặp Thìn Tuất và cặp Sửu Mùi (+ - thổ)

* CAN xung khắc (theo cơ chế đồng cực mà khác hành):
- Giáp Mậu (+mộc +thổ)
- Ất Kỷ (-mộc -thổ)
- Bính Canh (+hỏa +kim)
- Đinh Tân (-hỏa -kim)
- Mậu Nhâm (+thổ +thủy)
- Kỷ Quý (-thổ -thủy)
- Canh Giáp (+kim +mộc)
- Tân Ất (-kim -mộc)
- Nhâm Bính (+thủy +hỏa)
- Quý Đinh (-thủy -hỏa)

Khi Can xung khắc nhau mà ở giữa có Can hóa giải theo lý "tham sinh kỵ khắc" thì không còn xảy ra xung khắc nữa. Thí dụ: Giáp can năm khắc Mậu can ngày, nhưng có can tháng là Bính hỏa thì Giáp sinh cho Bính, không khắc Mậu nữa. Để ý là Bính dương hỏa mới tốt, chứ Đinh âm hỏa lại không cứu giải được trường hợp này.

* CHI xung nhau là các chi trên biểu đồ đối nghịch nhau và có hành tương phản tạo thành "lục xung" rất mạnh:
1)- Tứ Xung (đồng cực khác hành)
- Tý Ngọ (cùng là dương, thủy khắc hỏa)
- Tỵ Hợi (cùng là âm, thủy khắc hỏa)
- Mão Dậu (cùng là âm, kim khắc mộc)
- Dần Thân (cùng là dương, kim khắc mộc)

2)- Nhị xung (đồng cực đồng hành; chỉ có Thổ; nhưng xung mà không có khắc):
- Thìn Tuất
- Sửu Mùi

Ngoài ra còn có loại HẠI nhau, như ỷ mạnh hiếp yếu vậy, cho dù là tương sinh như Ngọ hỏa sinh cho Sửu thổ; Ngọ là dương, Sửu là âm, nhưng Ngọ và Sửu đứng đối nhau trên đồ hình tính theo cực âm-dương nên hại nhau chứ không sinh cho nữa. Điều này không theo cơ chế Khác Hành Sinh Khắc (điểm 4 bài đầu tiên), nên chú ý, loại tương hại này chỉ để tham khảo thêm mà thôi:
- Tí Mùi
- Sửu Ngọ
- Dần Tỵ
- Mão Thìn
- Thân Hợi
- Dậu Tuất

Thứ Năm

Thí dụ trong Tích Thiên Tủy (1)

丙子

己亥

乙亥

丙子

庚子

辛丑

壬寅

癸卯

甲辰

乙巳

乙 亥日元,生于亥月,喜其天干两透丙火,不失阳春之景。寒木向阳,清而纯粹,惜乎火土无根,水木太重,读书未售;兼之中年一路水木,生扶太过,局中火土皆 伤,以致财鲜聚而志未伸。然喜无金,业必清高。若以年时为乙木病位,月日为死地,岂不休囚已极,宜用生扶之运?今以亥子之水作生论,则不宜再见水木也。



Bính - Kỷ Hợi - Ất Hợi - Bính

Canh Tý, Tân Sửu, Nhâm Dần, Quý Mão, Giáp Thìn, Ất Tỵ


Ất hợi nhật nguyên, sinh vu hợi nguyệt, hỷ kỳ thiên can lưỡng thấu bính hỏa, bất thất dương xuân chi cảnh. Hàn mộc hướng dương, thanh nhi thuần túy, tích hồ hỏa thổ vô căn, thủy mộc thái trọng, độc thư vị thụ; kiêm chi trung niên nhất lộ thủy mộc, sinh phù thái quá, cục trung hỏa thổ giai thương, dĩ trí tài tiên tụ nhi chí vị thân. Nhiên hỷ vô kim, nghiệp tất thanh cao. Nhược dĩ niên thời vi ất mộc bệnh vị, nguyệt nhật vi tử địa, khởi bất hưu tù dĩ cực, nghi dụng sinh phù chi vận? Kim dĩ hợi tý chi thủy tác sinh luận, tắc bất nghi tái kiến thủy mộc dã.

(Chương 9-Can Chi tổng luận)

Trong Tích Thiên Tủy, 1 thí dụ có thể lập lại nhiều lần, vì tác giả (Nhâm Thị) muốn nhấn mạnh vào 1 vấn đề. Như thí dụ Bính Tí-Kỉ Hợi-Ất Hợi-Bính Tí là nói tới Ất tử ở Hợi. Có vài luận điểm cho điều này mà chúng ta lại phải cần phân tích ra cho rõ:

1. Không phải cứ nhật can rơi vào cung từ Suy đến Tuyệt là nhược, và tức khắc dùng Ấn Kiêu để bổ cứu cho nó. Có nghĩa là có trường hợp Ất tử ở Hợi vẫn là suy yếu khi xét cả tứ trụ, mộc khí rất nhược. Lúc đó thì phải dùng Ấn Kiêu chứ! Riêng đối với quan điểm của Nhâm Thị trong khi bình chú Tích Thiên Tủy thì không xét can âm trong vòng trường sinh mà chúng ta đã học. Vì thế trong tất cả các thí dụ của Tích Thiên Tủy ta sẽ thấy Ất cũng như Giáp, đều là Mộc khí, và chỉ xét Mộc trường sinh ở Hợi.

Trong tứ trụ trên, thì chính Ấn Kiêu đã quá vượng, còn suy nghĩ dụng Ấn làm gì nữa? Quả thật, chỗ này tôi đã không khỏi thắc mắc ngay từ lúc mới đọc! Thành thử, sau này có người phê bình lại Nhâm Thị rất nặng, đại khái như luận giải trên.

2. Không phải cứ sinh mùa đông là lấy Hỏa làm dụng thần, sinh mùa hè thì dụng Thủy. Dụng thần điều hầu là một yếu tố để xét, chứ không phải là cứu cánh cuối cùng. Ở thí dụ trên, vì có 2 Bính hỏa thấu can, nên mới nói là "rất mừng được lưỡng hỏa". Tứ trụ được thăng bằng trở lại. Đồng ý.

Tuy thế, hỏa này tuy lộ mà không có gốc, Nhâm Thị cũng nhận xét như thế. Kể như chỉ là "hàn mộc hướng dương", giải thích cho người này là chí khí có đủ, học tập cần mẫn, ý vươn lên... Nhưng hy vọng rất mỏng vì hỏa không có gốc, là không có "đất" để bám, diễn theo nghĩa đen là vậy.

3. Bình thường xét tứ trụ này là hẳn nhiên nghĩ ngay đến tòng cường cách (theo Thủy), vì nếu lập biểu đồ sẽ thấy rõ tứ trụ bị nghiêng về Thủy, lại khuyết Kim. Hành vận là Tí trước, Sửu sau, rồi mới sang Mộc. Nên rất dễ cho rằng phải tòng cường cách.

Nhưng hãy để ý câu: "Tứ trụ mừng không thấy kim..." vì Kim sinh Thủy và khắc Ất mộc. Hai yếu tố này không có, tức là Ất mộc được thoát. Nếu cho rằng Ất cũng như Giáp, vượng ở Hợi thì chẳng nên không sợ khắc hay sao?

Tứ trụ chòng chành, nghiêng về Ấn Kiêu, Thực Thương và Tài thấu, không có Quan Sát, thì cũng rõ là sẽ thành công ở mặt kinh doanh, buôn bán nhất thời nào đó. Vì Thực Thương sinh Tài, cũng như Ấn sinh Tỉ Kiếp.

Câu hỏi là cuối cùng cuộc đời người này trường thọ thành công về mặt Tài như thế nào? Theo Nhâm Thị nói trên thì ta hiểu là "hỏa thổ thì bị thương, thủy mộc thì thái quá, kim thì không có", vậy rốt cục là ông ta muốn nói gì?

- Luận Mệnh qua 8 chữ rất kỹ, suy ra được cả 5 hành vượng nhược ra sao, kết luận là mệnh đó quý hay là phú, hoặc là bần, yểu, tiện cách....
- Hành vận là điểm chốt lại để xét có cứu hay không.

Tại sao? 3 trụ năm, ngày, giờ không nhúc nhích thay đổi, chỉ có trụ tháng biến thiên thành đại vận. Có phải "bí mật" đều nằm ở điểm này không?